Giới thiệu
Tôm thẻ chân trắng là loài tôm được nuôi chủ yếu ở các nước Châu Á, bao gồm Thái Lan (Limsuwan and Chanratchakool 2004). Từ năm 2012, người nuôi tôm Thái lan phải chịu thiệt hại lớn về kinh tế do EMS gây ra. Bệnh EMS đã làm giảm năng suất tôm Thái Lan từ 540.000 tấn trong năm 2012 xuống còn 256.000 tấn trong năm 2013 và 210.000 tấn trong năm 2014. Tôm bị ảnh hưởng cho thấy những dấu hiệu màu sắc nhợt nhạt, cũng như gan tụy bị teo. Vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus là tác nhân nghi ngờ gây chết hàng loạt vì nó gây chết 100% với bệnh lý AHPND/EMS (Tran et al. 2013).
Hình 1: Tổng mật số vi khuẩn Vibrio spp. trong ruột tôm khi cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Bởi vì, việc sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm không được khuyến khích, do đó cần tìm một giải pháp thay thế để ngăn ngừa lây nhiễm vi khuẩn là cần thiết. Acid hữu cơ là một trong những chất có nhiều triển vọng vì nó được báo cáo là có khả năng kháng lại vi khuẩn Vibrio spp. và tăng tỷ lệ sống. Astaxanthin là một loại carotenoid cũng có thể cải thiện tỷ lệ sống và tăng sức đề kháng với điều kiện gây tress như oxy thấp, độ mặn thấp, nhiệt độ thấp và khí độc amonia. Do đó, cả acid hữu cơ và astaxanthin có tiềm năng sử dụng trong nuôi tôm như nguồn phụ gia bổ sung vào thức ăn.
Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của việc bổ sung acid formic và astaxanthin lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng.
Thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức: 0.3% acid formic; 0.6% acid formic; 50 ppm astaxanthin; 0.3% acid formic + 50 ppm astaxanthin; 0.6% acid formic + 50 ppm astaxanthin và nghiệm thức đối chứng. Acid formic và astaxanthin được phun và trộn vào thức ăn viên, thức ăn có hàm lượng đạm 36% và 6% lipid. Tôm PL được thuần dưỡng thích nghi 3 ngày (PL12) sau đó bố trí vào bể 500 L, mỗi nghiệm thức lặp lại 4 lần, mật độ thả nuôi 75 con/500 L. Mỗi nghiệm thức được cho ăn một trong sáu chế độ cho ăn bổ sung trong vòng 60 ngày. Độ mặn trong suốt quá trình thử nghiệm đã được duy trì ở mức 25 ppt, oxy hòa tan trên 4 ppm, và nhiệt độ nước ở 29 ± 1°C. Thức ăn dư thừa và phân tôm được siphong hàng ngày, khoảng 10% lượng nước được trao đổi mỗi 3 ngày. Trọng lượng cơ thể và tỷ lệ sống trung bình của tôm được ghi nhận sau 60 ngày thí nghiệm.
Hình 2: Tổng số vi khuẩn trong đường ruột tôm thẻ chân trắng
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của acid formic và astaxanthin lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, hệ vi khuẩn đường ruột và đáp ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng khi cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio.
Mật độ thả tôm 30 con/500 L (tôm dùng trong thí nghiệm 2 được lấy từ thí nghiệm 1), mỗi nghiệm thức lặp lại 4 lần. Tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm (0 ngày), vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus được thêm vào mỗi bể để đạt mật số vi khuẩn là 104 CFU/mL. Thời gian nuôi thí nghiệm là 30 ngày. Trọng lượng và tỷ lệ sống của tôm được ghi nhận khi kết thúc thí nghiệm.
Mỗi nghiệm thức thu ngẫu nhiên 5 con tôm để phân tích hệ vi khuẩn đường ruột định kỳ vào ngày thứ 10, 20 và 30.
Các thông số miễn dịch được đo khi kết thúc thí nghiệm bao gồm: Tổng lượng hồng cầu; hoạt động thực bào, hoạt động phenoloxidase, hoạt động superoxide dismutase và tác dụng diệt khuẩn.
Hình 3: Tổng lượng hồng cầu của tôm thẻ chân trắng khi cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Kết quả
Thí nghiệm 1: Sau 60 ngày thí nghiệm tôm được cho ăn 50 ppm astaxanthin có trọng lượng cao nhất (4.45 ± 0.45 g), tiếp theo là tôm ăn với 0,3% acid formic + 50 ppm astaxanthin (4.38 ± 0.37 g), 0,6% acid formic + 50 ppm astaxanthin (4.05 ± 0.21 g), thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (4.18 ± 0.05 g). Tỷ lệ sống trung bình của tôm cho ăn thức ăn có bổ sung 0.6% acid formic + 50 ppm astaxanthin là cao nhất (82.33 ± 8.32 %) và cao hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng (64.33 ± 10.12 %).
Hình 4: Hoạt động thực bào của tôm thẻ chân trắng khi cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Thí nghiệm 2: Khi kết thúc thí nghiệm, nghiệm thức cho ăn 0.3% acid formic + 50 ppm astaxanthin cho tăng trưởng cao nhất (2.97 ± 0.83 g), tỷ lệ sống của tôm cho ăn acid formic và astaxanthin cao hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng (20,00 ± 17,32%) và kết quả cao nhất đạt được ở nghiệm thức cho ăn 0.6% acid formic + 50 ppm astaxanthin (67.50 ± 3.33 %).
Hình 5: Hoạt động Phenoloxidase (đơn vị/phút/mg protein)
Vi khuẩn Vibrio ssp. và vi khuẩn tổng số trong đường ruột tôm ở nghiệm thức thí nghiệm đều thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng. Mật số vi khuẩn đường ruột thấp nhất trong tôm khi cho tôm ăn liều cao với acid formic (0.6%). Vào thời điểm kết thúc thí nghiệm, nghiệm thức cho tôm ăn 0.6% acid formic và 0.6% acid formic + 50 ppm astaxanthin có mật số vi khuẩn Vibrio ssp. thấp nhất (1.60 ± 0.70 x 10^6 CFU/g và 1.30 ± 0.58 x 10^6 CFU/g, tương ứng). Nghiệm thức đối chứng có mật số vi khuẩn Vibrio ssp. cao nhất (47.20 ± 25.40 × 10^6 CFU/g).
Hình 6: Hoạt động superoxide dismutase (SOD đơn vị/mL)
Các thông số miễn dịch của tôm bị ảnh hưởng đáng kể bởi astaxanthin trong thức ăn tôm. Tôm được nuôi bằng thức ăn chứa astaxanthin (cụ thể là 50 ppm astaxanthin + 0,3% acid formic, 50 ppm astaxanthin + 0,6% acid formic, và 50 ppm astaxanthin) có tổng lượng hồng cầu (THC), hoạt động thực bào, và hoạt động phenoloxidase (PO) cao hơn đang kể so với nghiệm thức đối chứng và acid formic.
Nguồn: www.aquanetviet.com