Hội chứng phân trắng (White feces syndrome) trên tôm thẻ chân trắng

Hiện nay, những quốc gia nuôi tôm lớn nhất đều tập trung ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Trung Quốc, Thailand, Việt Nam, Indonesia và Malaysia. Khu vực Đông Nam Á chiếm đến 95% sản lượng tôm toàn cầu. Năm nay, hầu hết tôm nuôi là tôm chân trắng. Tôm sú được nuôi chủ yếu tại Việt Nam và Ấn Độ trong khi đó hơn 50% tôm nuôi tại Thailand, Indonesia và Trung Quốc là tôm chân trắng.

Trong năm vừa qua, hội chứng phân trắng (WFS) đã diễn ra tại những trang trại nuôi thâm canh tôm chân trắng mật độ cao – đặc biệt là Thailand, WFS xảy ra hất hết các vùng, khu vực có nuôi tôm chân trắng. WFS bùng phát vào đầu năm ngoái, vào khoảng cuối tháng 2, ngay sau khi kết thúc mùa lạnh. Hiện tượng El Nino làm thời tiết trở nên nóng bất thường và là nguyên nhân làm cho nhiệt độ tăng cao trên toàn lãnh thổ. Khoảng thời gian từ cuối tháng 2 đến tháng 5, nhiệt độ nước trung bình vào buổi trưa tại tất cả các trang trại nuôi tôm chân trắng vào khoảng 32 – 340C. Nhiệt độ này cao hơn mức bình thường và cao hơn điều kiện nhiệt độ tối ưu của tôm chân trắng (28 – 300C). Tôm là động vật máu lạnh, vì vậy khi nhiệt độ nước tăng cao thì nhiệt độ cơ thể của chúng cũng tăng lên, sau đó là tỷ lệ trao đổi chất của chúng cũng tăng và làm cho chúng ăn nhiều hơn mức bình thường. Ở những ao nuôi cung cấp đầy đủ oxy, khi nhiệt độ nước tăng lên đến 330C vào buổi trưa, thì tôm ăn tăng hơn 30% so với ở điều kiện nhiệt độ nước 300C, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng thì không tăng (Limsuwan và cộng sự, 2011). Hoạt động ăn bất thường như vậy dẫn đến việc một lượng lớn thức ăn sẽ dư thừa ở đáy ao nuôi và là nguyên nhân làm gia tăng nhanh chóng sinh khối tảo cũng như vi khuẩn mà hầu hết là là vi khuẩn vibrio. Sau 50 ngày thì tôm nuôi bắt đầu bị phân trắng, sau đó tôm giảm ăn. Rất nhiều người nuôi tôm nỗ lực giải quyết vấn đề phân trắng bằng các phương pháp mà trước đây họ từng sử dụng khi chữa trị WFS cho tôm sú, tuy nhiên hầu như tất cả các phương pháp này hoàn toàn không có hiệu quả trên tôm chân trắng. Tôm bắt đầu chết và người nuôi buộc phải thu hoạch sớm. Trong trường hợp này, tỷ lệ sống thường thấp và hệ số thức ăn cao. Tuy nhiên, sau giữa năm 2010, hiện tượng thời tiết La Nina bắt đầu ảnh hưởng đến Thailand, nó mang đến lượng mưa bất thường và nhiệt độ nước trở lại bình thường vào cuối năm và WFS giảm hẳn tác động vào giai đoạn này.

Năm 2011, WSF lại một lần nữa bùng phát và là nguyên nhân gây mất mùa cho người nuôi trên toàn lãnh thổ Thailand, mặc dù nhiệt độ nước thấp hơn bình thường.
Tiết trời lạnh lẽo từ Trung Quốc là nguyên nhân làm cho thời thiết tại Thailland trở nên lạnh hơn bình thường trong một thời gian dài và kéo dài đến cuối tháng 3. Ngoài ra, lượng mưa trên toàn đất nước Thailand cũng cao hơn bình thường, do vậy mà không có chu kỳ nhiệt độ cao như nữa đầu năm ngoái, tuy nhiên WFS vẫn là nguyên nhân gây mất mùa cho người nuôi khắp vùng, khu vực tại Thailand.

NGUYÊN NHÂN GÂY HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG THỰC SỰ LÀ GÌ?

Các nhà khoa học tại nhiều học viện khác nhau đã tiến hành nghiên cứu WFS trên tôm trong năm qua. Khảo sát gan tuỵ và đường ruột của tôm bị bệnh, họ phát hiện ra nguyên sinh động vật Gregarine có liên quan đến WSF và một số nhà nghiên cứu khác phát hiện một lượng lớn vi khuẩn tồn tại trong huyết tương, ruột và hệ gan tuỵ của những con tôm bị nhiễm WFS.

Rất nhiều nông dân nghĩ rằng WFS có liên quan đến chất lượng thức ăn. Sỡ dĩ như vậy vì năm ngoái một số nguyên liệu thức ăn như bột cá và bột mì trở nên khan hiếm và giá cả tăng cao, người nuôi nghi ngờ các nhà máy thức ăn không làm ra thức ăn đạt chất lượng, sử dụng các loại nguyên liệu có giá thấp hơn, tôm nuôi không thể tiêu thụ hết thức ăn và dẫn đến một lượng lớn thức ăn dư thừa ở đáy ao làm cho tảo và vi khuẩn có hại phát triển và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nước cũng như sức khoẻ tôm nuôi và gây ra WFS. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm trái ngược với quan điểm trên bởi vì nhiều trang trại nuôi tôm vẫn phát triển tốt và không gặp vấn đề với WFS mặc dù dùng cùng loại thức ăn. Hầu hết những trang trại nuôi không gặp phải WFS thường sử dụng một lượng lớn hệ thống quạt nước.

Trung tâm nghiên cứu thương mại thuỷ sản đã tiến hành lấy mẫu tôm bị WFS và thu thập dữ liệu tại những trang trại tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện an toàn sinh học. Những trang trại này có hàng rào bảo vệ ngăn chặn cua còng mang mầm bệnh vào ao nuôi và có lưới chặn bên trên để ngăn ngừa chim. Hầu hết những mẫu tôm bị WFS tại những trang trại này chứa một lượng lớn vi khuẩn vibrio trong huyết tương, các chủng vi khuẩn phát hiện bao gồm V. vulnificus, V.fluvialis, V.parahaemolyticus, V.alginolyticus, V.damseles, V.minicus và V.cholera với tỷ lệ phần trăm theo trình tự là 80%, 44%, 28%, 20%, 18%, 8% và 6%. Chỉ có một lượng nhỏ gregarine được phát hiện và một lượng lớn Microsporidians được phát hiện trong gan tuỵ.

SỰ NGHIÊM TRỌNG CỦA HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

Hội chứng phân trắng liên quan mật thiết đến việc quản lý cho ăn và mật độ thả nuôi. Hội chứng phân trắng xảy ra một cách nhanh chóng và càng nghiêm trọng hơn đối với những trang trại nuôi cho ăn dư thừa. Thông thường hội chứng phân trắng xuất hiện sau 50 – 70 ngày thả nuôi. Người nuôi quan sát thấy dấu hiệu phân trắng sớm khi tôm bắt đầu giảm ăn. Những con tôm bệnh trở nên đen (sậm màu) hơn bình thường. Bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến gan tuỵ và ruột tôm sẽ có màu trắng.

 
                                                                Hình 1 – Tôm bệnh có màu đen hơn (con trên)
Sau một thời gian, những con tôm bệnh bị ốp, vỏ mềm, lờ đờ và chết. Thông  thường khi tôm bị phân trắng thì người nuôi thường thu hoạch sớm và mất mùa so với mục tiêu dự kiến ban đầu. Hầu hết những con tôm kích thước lớn thường chết trước và những con nhỏ hơn thì vẫn tồn tại nhưng sau đó thì chúng cũng chết dần. Hệ số thức ăn cao hơn mức bình thường và sản lượng thu hoạch thì thấp.

Hiện tại, người nuôi thường cho tôm ăn theo khuyến cáo của của nhà máy sản xuất thức ăn. Lượng cho ăn thông thường ngay ngày đầu thả tôm là 3kg/100.000 con và nhanh chóng tăng lên hàng ngày, cho đến ngày tuổi 30 thì tổng lượng thức ăn cho 100.000 con là 300 kg. Lượng cho ăn này cao hơn nhiều so với trước đây khi Thailand bắt đầu nuôi tôm chân trắng. Đầu tiên, lượng cho ăn ngày đầu thả nuôi chỉ là 2 kg/100.000 con, sau đó tăng dần lên đến ngày 30 thì tổng lượng thức ăn chỉ là 150 – 160 kg/100.000 con. Khi một lượng lớn thức ăn được cho vào ao sẽ chẳng có vấn đề gì nếu như tôm nuôi khoẻ mạnh, lớn nhanh và tỷ lệ sống cao. Tuy nhiên, nếu sau tháng nuôi đầu tôm chậm lớn và tỷ lệ sống thấp, trong khi đó một lượng lớn thức ăn vẫn được thêm vào thì nước ao nuôi bắt đầu chuyển dần sang màu tối hơn và không lâu sau đó thì phân trắng bắt đầu xuất hiện. Điều này càng diễn ra nhanh hơn trong những ngày có thời tiết biến đổi liên tục.

NGĂN NGỪA HỘI CHỨNG PHÂN TRẮNG

1. Ao nuôi cần phải được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thả giống. Đối với ao đất, toàn bộ chất cặn bã, bùn phải được loại bỏ hoàn toàn. Nước cấp vào ao nuôi cần phải được xử lý hoá chất để loại bỏ vi khuẩn gây bệnh.

2. Không cho tôm ăn dư thừa. Lượng thức ăn ngày đầu tiên thả giống chỉ nên vào khoảng 2 kg/100.000 con và sau 30 ngày thả nuôi, lượng thức ăn không được vượt quá 200 kg/100.000 con. Người nuôi cần phải ước lượng được tỷ lệ sống và tính toán lượng thức ăn dựa trên phần trăm trọng lượng trung bình của tôm như bảng dưới đây
 

Trọng lượng tôm
(g/con)
% lượng thức ăn theo trọng lượng
2 9.6
3 6.8
5 5.3
7 4.1
10 3.3
12 3.0
15 2.6
20 2.1
25 1.5
30 1.3
 
 
Sau khi ước lượng được số lượng tôm nuôi còn sống trong ao, người nuôi nên tính tổng lượng thức ăn cần thiết.

Thí dụ: Giả sử lượng tôm còn sống trong ao là 500.000 con, và tôm có trọng lượng trung bình là 10 gam/con, lượng thức ăn cần sử dụng là 165 kg/ngày (3.3%) nếu như điều kiện thời tiết bình thường. Ở điều kiện bình thường, tôm nuôi sẽ đạt trọng lượng 12 – 13 gam/con sau 10 ngày. Như vậy lượng cho ăn sẽ được tính như sau:

Tổng trọng lượng tôm trong ao: 13 gam x 500.000 con = 6.500 kg.
Lượng thức ăn là: 6.500 kg * 3% = 195 kg/ngày.
Do đó lượng thức ăn tăng lên hàng ngày (trong khoảng thời gian 10 ngày) là: (195 kg – 165 kg)/10 = 3 kg/ngày.
Với cách tính toán lượng thức ăn như trên, bạn có thể thấy rằng lượng thức ăn tăng hàng ngày chỉ vào khoảng 0,6 kg/100.000 con. Nhiều ngươi nuôi tăng thức ăn rất nhanh và như thế thì sẽ gây ra nhiều bất lợi sau đó.

3. Nên duy trì hệ thống quạt nước sau cho hàm lượng oxy hoà tan trong ao nuôi luôn ở mức thấp nhất là 3.5 – 4 ppm trước lúc bình minh.

LÀM GÌ KHI TÔM BỊ PHÂN TRẮNG

Mặc dù người nuôi tuân thủ tuyệt đối việc thực hành quản lý ao nuôi và quản lý cho ăn tốt nhưng sự thay đổi thường xuyên của thời tiết và nhiệt độ tăng cao trong những năm gần đây là nguyên nhân làm cho tôm bất ngờ ăn nhiều hơn hoặc ít hơn kỳ vọng và cũng làm cho tôm nuôi trở nên dễ mắc bệnh hơn. Người nuôi cần phải quan sát cẩn thận nước ao nuôi, đặc biệt là sàng ăn và khu vực dưới gió để xem tôm có dấu hiệu bị phân trắng hay không.

Nếu phát hiện tôm bị phân trắng, người nuôi cần ngưng cho ăn tức thời, mở hết quạt nước với tốc độ cao nhất nhằm hỗ trợ nhanh chóng phân huỷ chất thải trong ao nuôi. Sau khi ngừng cho ăn khoảng 01 ngày thì chất lượng nước sẽ được cải thiện đáng kể, màu nước trở nên sáng hơn và phân trắng giảm rõ rệt hoặc đôi khi phân trắng hết hoàn toàn. Sau đó, người nuôi nên tiến hành cho ăn lại với lượng thức ăn ít hơn. Thông thường, phương pháp này có thể giúp cho người nuôi tiếp tục duy trì vụ nuôi cho đến khi đạt kích cỡ thương phẩm. Tuy nhiên, nếu như người nuôi phạm phải sai lầm là cho tôm ăn nhiều ngay khi mới thả nuôi (khoảng 3 – 4 kg/100.000 con) với hy vọng là tôm sẽ lớn nhanh hơn thì khi bị phân trắng, vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, khó xử lý một cách nhanh chóng và có thể phải thu hoạch sớm để cắt lỗ.

Lược dịch bởi: KS. NGUYỄN THÀNH QUANG THUẬN

Bài viết của: GSTS Chalor Limsuwan – Trung tâm nghiên cứu thương mại thuỷ sản (ABRC), Khoa Thuỷ Sản – Trường Đại học Kasetsart – Thailand.