Bệnh phổ biến trên tôm nuôi: Nguyên nhân, chẩn đoán và phòng trị (Phần 3)

7. Bệnh hoại tử cơ, trắng đuôi, đục cơ 

Có rất nhiều nguyên nhân gây nên bệnh bệnh hoại tử cơ, trắng đuôi, đục cơ trên tôm. Dấu hiệu chung của bệnh này là phần cơ đuôi hoặc phần cơ ở các đốt thân khác hoặc toàn thân có màu trắng hoặc đục và có dấu hiệu hoại tử. Các nguyên nhân/trường hợp gây đục cơ trên tôm như sau:

Đục cơ kết hợp với cong thân: Trường hợp này thường xảy ra khi nhấc nhá (sàn, vó) lên khỏi mặt nước vào ban ngày, khi nhiệt độ rất nóng. Tôm nhảy lên và búng mạnh, rồi sau đó một số con bị cong thân. Đuôi uốn cong chạm đến phần giáp ngực, cùng lúc đó mô cơ chạy dọc theo phần giữa cơ thể sẽ trở nên trắng đục. Sau khi được thả trở lại ao, tất cả tôm cong thân đều sẽ chết vì không có khả năng tự duỗi thẳng. Tương tự, khi chài tôm kiểm tra lúc nắng nóng, tôm cũng trắng cơ và cong thân. Cách tốt nhất để hạn chế là không nhấc nhá lên khỏi mặt nước hoặc sử dụng chài để kiểm tra tôm khi thời tiết nắng nóng. Hiện tượng này đôi khi cũng xảy ra khi tắt toàn bộ quạt nước lúc cho tôm ăn rồi bật quạt chạy trở lại. Việc các dàn quạt hoạt động trở lại có thể khiến tôm “giật mình” và nhiều con nhảy lên mặt nước tạo thành “làn sóng” chạy dọc theo ao. Hiện tượng này thường xảy ra vào lúc khuya, một vài con bị cong thân khi tiếp xúc với không khí và chuyển sang trắng cơ. Thường thì người nuôi không chú ý đến hiện tượng này và đến ngày hôm sau mới phát hiện có tôm chết ở trong ao. Vấn đề này thường xảy ra khi thời tiết có nhiệt độ cao và trong ao có nhiều loài tảo giáp phát triển. Mật độ tảo giáp cao làm cho nước có màu nâu đỏ và tôm yếu đi. Cách tốt nhất để tôm không nhảy lên mặt nước do bị sốc vì bật lại máy quạt nước là khi tôm đạt kích cỡ 10 gram/con hoặc lớn hơn thì người nuôi nên duy trì hoạt động của một vài dàn quạt, thậm chí trong lúc cho tôm ăn (Công ty BayerAnimal Vietnam).

Đục cơ do trong quá trình vận chuyển hoặc sang ao: Khi kéo lưới để bắt tôm cho mục đích thu tỉa hay sang ao, một số tôm sẽ bị stress và một phần hay toàn bộ cơ thịt của nó sẽ bị trắng đục, hoặc thỉnh thoảng có sự pha lẫn giữa màu trắng và màu tối khác thường như màu cam hoặc màu đỏ hồng. Hầu hết tôm có màu khác thường này sẽ chết. Những con khác bị nhẹ nếu có hồi phục thì cũng mất vài ngày màu sắc cơ thể mới trở lại bình thường. Biện pháp tốt nhất là phải kiểm tra sức khoẻ tôm trước khi di chuyển sang ao mới. Nếu tôm khoẻ mạnh thì nó có thể chịu đựng được stress. Nếu người nuôi bắt đầu chuyển tôm và phát hiện thấy một vài con chuyển sang trắng đục thì nên hoãn lại. Nước dùng vận chuyển tôm phải có nhiệt độ 24 – 25oC và hàm lượng oxy phải cao (Công ty BayerAnimal Vietnam).

15521292049_f80550a8c3_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bị đục cơ do quá trình vận chuyển.

Đục cơ do hàm lượng oxy thấp: Lượng oxy trong nước ao nuôi sẽ thấp nếu như không lắp đủ các dàn quạt nước tương ứng với số tôm trong ao. Theo kinh nghiệm, mỗi mã lực điện (HP) máy quạt nước thì sẽ cung cấp đủ oxy cho 400 – 500 kg tôm chân trắng. Người nuôi nên tính số lượng dàn quạt nước vừa đủ cung cấp oxy cho lượng tôm có trong ao. Ngoài ra, vị trí đặt dàn quạt nước cũng rất quan trọng, lắp đặt các dàn quạt nước đúng vị trí sẽ tạo được dòng chảy cuốn chất thải vào giữa ao, làm cho đáy ao luôn sạch, đồng thời làm cho oxy được khuyếch tán vào mọi nơi trong ao, đặc biệt là giữa ao, nơi diễn ra sự phân huỷ các chất hữu cơ được tích tụ từ xác tảo tàn và thức ăn dư thừa. Quá trình phân huỷ các chất hữu cơ tăng lên trong suốt vụ nuôi và đây là nguyên nhân làm lượng oxy trong nước giảm xuống thấp. Chất thải hữu cơ tích tụ trong ao sẽ được vi sinh phân huỷ và hoạt động sống của chúng cần lượng lớn oxy. Khi trời có nhiều mây mù hoặc mưa trong vài ngày liên tục, tảo sẽ không thể quang hợp tốt và sẽ không tạo ra nhiều oxy. Trong khi đó, mọi sinh vật sống trong ao bao gồm tôm, tảo và vi sinh vật đều sử dụng oxy. Oxy hoà tan trong nước không đều và rất thấp ở giữa ao, đặc biệt là những ao không có sự trao đổi nước thường xuyên và thả tôm mật độ cao. Khi có nhiều tôm, người nuôi phải cung cấp nhiều thức ăn và màu nước ao sẽ đậm vì tảo phát triển dày đặc. Nếu oxy trong ao tôm từ 4 ppm trở lên, cơ thể tôm chân trắng có màu sáng bình thường. Nhưng trong những ao nuôi mật độ cao và oxy hòa tan thấp, thì tôm sẽ bị stress và cơ thể sẽ có xu hướng chuyển thành màu trắng hay mờ đục. Khi hàm lượng oxy xuống thấp 1,7 ppm thì tôm sẽ bơi lên mặt nước (tôm nổi đầu) và hầu hết sẽ chết khi lột xác. Hiện tượng này cũng đã được chứng minh ở phòng thí nghiệm Aquaculture Business Research Center của Đại học Kasetsart, Thái Lan. Tôm được nuôi trong bể kính có sục khí đầy đủ. Khi tắt máy sục khí, oxy trong nước giảm và kéo theo hoạt động của tôm giảm. Tôm không bơi lội nhiều và thường có khuynh hướng xuống gần đáy bể. Tôm sẽ không chết hoặc bơi lờ đờ lên mặt nước kể cả khi oxy trong nước thấp hơn 1 ppm. Tuy nhiên, khi hàm lượng oxy xuống thấp hơn thì hầu hết tôm có dấu hiệu mô cơ trở nên trắng đục. Một số con chỉ trắng tại phần gốc của các chân bơi (Công ty BayerAnimal Vietnam).

Đục cơ do bệnh: Ngoài những trường hợp trên, tôm còn có thể đục cơ do bệnh lý. Hiện tại, có nhiều nghiên cứu đã xác định được nguyên nhân gây bệnh đục cơ trên tôm thẻ chân trắng là do tôm bị bệnh, ví dụ như do nhiễm vi bào tử trùng (Microsporidian), hay virus (IMNV, PvNV) hay do nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio (bệnh trắng đuôi do Vibrio harveyi được đặt tên là “bệnh trắng đuôi do vi khuẩn” (BWTD – bacterial white tail disease). Ở vùng nuôi có độ mặn tương đối cao (25 – 35‰), tôm chuyển sang trắng đục ở một số bộ phận trên cơ thể, nhưng nguyên nhân không phải do stress mà thường do vi bào tử trùng (Microsporidian). Ngoài ra, tôm nhiễm virus gây hoại tử cơ (IMNV – infectious myonecrosis virus), hay bệnh hoại tử cơ trên tôm thẻ chân trắng do nodavirus (PvNV – Penaeus vannamei nodavirus). Hai loại virus IMNV và PvNV có nhiều đặc điểm giống với nodavirus gây bệnh trắng đuôi (WTD – white tail disease) trên tôm càng xanh (MrNV – Macrobrachium rosenbergii nodavirus). Cả hai loại virus này đầu tiên đều tấn công vào phần cơ tôm và có biểu hiện lâm sàng giống nhau là làm trắng hoặc đục ở đốt cơ đuôi trên họ tôm he. Các điểm hoại tử nhỏ bắt đầu ở phần đuôi rồi sau đó lan dần ra toàn thân. Tỷ lệ chết tích lũy khá cao, khoảng 40 – 70%. Cho đến nay vẫn chưa có biện pháp chữa trị mà chủ yếu vẫn áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp như không dùng tôm bố mẹ nhiễm bệnh trong các trại giống, loại bỏ những tôm bệnh ra khỏi ao nuôi và làm tốt công tác cải tạo ao.

15187199749_ab73fbcb4e_o.png
Cấu trúc hình thái dòng vi khuẩn V. harveyi HLB0905 (bar = 2 µm) gây bệnh trắng đuôi.

15350938636_13da2237b4_o.png
Dấu hiệu lâm sàng của bệnh trắng đuôi trên tôm thẻ chân trắng. (A) Dấu hiệu tôm bệnh trắng đuôi từ ao nuôi tự nhiên; (B) Dấu hiệu tôm bệnh trắng đuôi sau khi gây cảm nhiễm bằng vi khuẩn V. harveyi HLB0905 phân lập được trong phòng thí nghiệm. 

14362796690_90a36e24d6_o.jpg
Tôm bị đục cơ do nhiễm vi bào tử trùng. Tôm trưởng thành với dấu hiệu đục cơ đặc biệt ở phần lưng từ gan tụy đến phần giữa thân. Tuy nhiên, vài con cũng bị đục cơ ở phần đốt cuối cơ thể (Hình 01). Những đám, vệt lớn màu trắng đục trên những con tôm bị nhiễm bệnh cho thấy chúng thay thế cơ thịt cũng như những cơ quan khác như gan tụy, dạ dày và cơ quan bạch huyết (Lymphoid organ) (Hình 02).

15252663011_9b86a4d013_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh đục cơ.

15142040211_37c3dbb868_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh đục cơ.

15583977311_6d3479618e_o.jpg
Tôm sú bệnh “trắng đuôi”.

15521959457_86f86ee7d0_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bị đục cơ do nhiễm trùng hai tế bào (Microsporidian). 

8. Bệnh hoại tử gan tụy do vi khuẩn (NHPB) hay bệnh “đốm đen”

Nguyên nhân: Bệnh hoại tử gan tụy do vi khuẩn NHPB (Necrotizing hepatopancreatitis bacterium) có nguyên nhân là do tôm bị nhiễm vi khuẩn. Bệnh hoại tử gan tụy do vi khuẩn gây ra hoàn toàn khác với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMSAHPND mà ta đã biết. Kiểm tra PCR tôm bị đốm đen cho kết quả hoàn toàn âm tính với EMS/AHPND.  

Chuẩn đoán: Bệnh xảy ra do các điều kiện môi trường ao nuôi kém, đặc biệt là đáy ao bị dơ, các ao nuôi xuất hiện bệnh “đốm đen” thường có hàm lượng các khí độc như NH3, NO2 rất cao. Tỷ lệ chết có thể lên đến 95% trong vòng 15 – 30 ngày kể từ khi phát hiện bệnh nếu không có bất kỳ biện pháp chữa trị nào được áp dụng ngay tức thời đối với trường hợp ao nuôi ô nhiễm nặng và hàm lượng vi khuẩn trong nước ao nuôi vượt ngưỡng gấp nhiều lần. Tôm bệnh có các biểu hiện như lờ đờ, giảm ăn hoặc bỏ ăn, tốc độ tăng trưởng chậm, trên thân xuất hiện nhiều đốm đen li ti hoặc mãng lớn màu đen, mang màu tối hoặc đen, đuôi mỏng, có thể có những tổn thương phụ bộ như mòn đuôi và vảy râu, cụt râu, … Đối với những trường hợp bệnh nặng ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt, bề mặt thân tôm bị đốm đen có thể có mùi hôi (Nguyễn Thành Quang Thuận và ctv., 2014).

1015110.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen.

Picture1.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen.

preview_html_m7836119b.png
Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen.

Picture24.png
Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen, sau khi lột vỏ tôm có thể hồi phục.

15399977239_d5debc8c84_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen.

Phòng bệnh: Bệnh “đốm đen” có nguyên nhân do vi khuẩn, nên áp dụng các biện pháp phòng bệnh chung đối với bệnh do vi khuẩn. Các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo như sau: Quá trình cải tạo ao cần phải diệt khuẩn kỹ lưỡng, trước và sau khi diệt khuẩn cần thực hiện kiểm tra đánh giá mật số vi khuẩn gây bệnh bằng biện pháp đơn giản nhất là dùng đĩa thạch TCBS, qua đó có thể đánh giá công tác loại bỏ phần lớn mầm bệnh trong ao nuôi có đạt yêu cầu hay không. Kiểm tra chất lượng tôm giống bằng kỹ thuật PCR không chỉ với bệnh EMS, đốm trắng, IHHNV, IMNV mà cả NHP. Mật độ thả phù hợp với thiết kế cơ sở hạ tầng, hệ thống quạt nước cung cấp oxy, độ sâu mực ước ao nuôi, mùa vụ cũng như kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật, mức độ am hiểu về tôm thẻ chân trắng của chính người nuôi. Sử dụng các chế phẩm sinh học (probiotic) định kỳ và thường xuyên trong ao nuôi ít nhất trong 60 ngày đầu thả nuôi. Kiểm tra mật số vi khuẩn gây bệnh định kỳ 5 – 7 ngày/lần nhằm có biện pháp can thiệp kịp thời khi phát hiện mật số vi khuẩn tăng cao hơn 10^3 CFU/ml. Bổ sung khoáng chất và các chất tăng cường khả năng diệt khuẩn, tăng khả năng đề kháng của tôm trong ít nhất 45 ngày đầu thả nuôi và tốt nhất nên bổ sung ngay sau khi thả tôm. Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, tránh dư thừa sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển nhanh. Kiểm tra hàm lượng oxy trong ao nuôi thường xuyên để có biện pháp khắc phục tình trạng thiếu oxy cục bộ, kéo dài trong ao nuôi dễ gây stress cho tôm và qua đó ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi, dễ nhiễm bệnh. Nên đặt vó kiểm tra tôm sau 15 ngày thả nuôi nhằm có thể phát hiện sớm bệnh (Nguyễn Thành Quang Thuận và ctv., 2014).
 
Trị bệnh: Tùy theo cường độ cảm nhiễm của bệnh, sức khỏe tôm, và thời gian phát hiện bệnh mà các biện pháp chữa trị áp dụng có hiệu quả hay không. Phác đồ chữ trị chung cho bệnh đốm đen được thực hiện như sau:

– Đối với môi trường nước: Tiến hành diệt khuẩn trong ao bằng sản phẩm phù hợp tùy theo giai đoạn tuổi tôm. Quá trình này có thể lập lại 2 – 3 lần tùy theo tỷ lệ nhiễm bệnh trong ao. Cấy vi sinh lại với hàm lượng cao sau 36 giờ diệt khuẩn. Có thể bổ sung mật rỉ đường để điều chỉnh pH và giảm hàm lượng khí độc trong ao. Tăng cường sụt khí. 
 
– Đối với tôm: Giảm cho ăn từ 10 – 30% lượng cho ăn hàng ngày. Bổ sung vitamin C, khoáng chất, vitamin tổng hợp và hoạt chất tăng cường hệ miễn dịch cho tôm. Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong quá trình điều trị vì chúng có khả năng gây lờn thuốc nếu sử dụng không đúng cách, tái nhiễm với cường độ cao hơn dẫn đến khó chữa trị, nhiễm bệnh khác vì vô tình gây ra tình trạng lờn thuốc, biến thể với chủng vi khuẩn gây bệnh khác.

Với tỷ lệ nhiễm bệnh dưới 40% bầy đàn, môi trường không bị ô nhiễm trầm trọng và sức khỏe bầy tôm tốt, phác đồ chữa trị trên hoàn toàn có thể giúp người nuôi vượt qua giai đoạn khó khăn và có một mùa vụ thành công. Phác đồ chữa trị đơn giản trên phát huy hiệu quả hay không còn tùy thuộc và chất lượng sản phẩm mà người nuôi sử dụng. Với những sản phẩm chất lượng cao và phù hợp giai đoạn bệnh hầu hết 90% các trường hợp chữa trị đều mang đến thành công (Nguyễn Thành Quang Thuận và ctv., 2014).

Kết luận

Dịch bệnh trên tôm nuôi ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều bệnh mới xuất hiện trong thời gian gần đây, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế và đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp nuôi tôm trên thế giới. Bệnh do virus thường ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản nên có nhiều nghiên cứu tập trung vào các nhóm virus gây bệnh hơn là các mầm bệnh do vi khuẩn. Tuy nhiên, cùng với sự nóng lên toàn cầu, mức độ thâm canh hóa trong nuôi trồng thủy sản ngày càng cao, và vấn đề sử dụng kháng sinh vô tội vạ trong nuôi tôm đã làm phát sinh nhiều bệnh do vi khuẩn đặc biệt là nhóm Vibrio ngày càng trở nên nguy hiểm và ảnh hưởng đến ngành công nghiệp nuôi tôm he trên thế giới. Từ một tác nhân gây bệnh cơ hội, nhóm vi khuẩn Vibrio ngày càng có độc lực cao hơn và nó trở thành tác nhân chính gây bệnh trên tôm nuôi. Các giải pháp như nuôi ghép tôm với các loài cá như cá rô phi, sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi luân canh, tạo quần thể vi sinh (tảo và vi khuẩn) có lợi trong ao để át chế nhóm vi khuẩn Vibrio phát triển (chúng sẽ cạnh tranh về dinh dưỡng, môi trường sống,…với vi khuẩn gây bệnh), xây dựng và phát triển các chương trình sản xuất giống tôm phi bệnh tật (SPF)… đang có triển vọng cao và được khuyến cáo trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trên tôm nuôi hiện nay. Nếu muốn nuôi tôm bền vững và lâu dài trên mảnh đất của chúng ta thì nên hạn chế tối đa sử dụng kháng sinh!

Nguồn: www.aquanetviet.org